Theo Đông y, 4 khí dương từ trên đi xuống (Thiên khí) và 4 khí âm (Địa khí) từ dưới đi lên, 8 dòng khí hóa trên giao lưu qua cơ thể con người, tạo thành 8 kinh, gọi là Kỳ kinh bát mạch.
Kỳ kinh bát mạch gồm: Nhâm mạch, Đốc mạch, Dương duy mạch, Âm duy mạch, Dương kiều mạch, Âm kiều mạch, Xung mạch và Đới mạch. Trong 8 mạch, trừ 2 mạch Nhâm và Đốc có huyệt riêng, còn 6 mạch khác không có huyệt riêng, có thể dùng 1 số huyệt của các kinh chính (huyệt Hội với 8 mạch) để điều hòa mạch khí của 6 mạch này. Khác với 12 đường kinh chính, đường tuần hoàn mạch khí của 8 mạch, chỉ đi từ phần dưới cơ thể lên đầu mặt, trừ mạch Đới đi vòng quanh bụng dưới và thắt lưng.
Kỳ kinh bát mạch bao gồm những gì?
Kỳ kinh
Kỳ kinh bát mạch là tên gọi chung của Nhâm mạch, Đốc mạch, Xung mạch, Đới mạch, Dương kiều mạch, Âm kiều mạch, Dương duy mạch, Âm duy mạch. Nó khác với 12 đường chính kinh, vừa không thuộc tạng phủ vừa không có quan hệ phối hợp về âm dương biểu lý. Lại có đường tuần hoàn khác biệt nên gọi là kỳ kinh.
Công dụng:
1. Liên hệ, nối liền giữa 12 đường kinh chính.
2. Có tác dụng điều hòa, tích trữ, lưu thông khí huyết của 12 đường kinh chính.
Bát mạch
1. Nhâm mạch: Nhâm có nghĩa là nơi tập trung, giao lộ. Mạch nhâm nối những huyệt của kinh Thận ở bụng và ngực. Đây được coi là bể của toàn thân, ở bụng dưới chạy theo lằn trong xương sống, đảm nhiệm chức năng vận hành khí ở bụng. Nhâm mạch chạy dọc giữa vùng bụng, cai quản các âm kinh trong cơ thể. Khí mạch của nó giao hội với các âm kinh ở tay chân đề điều hòa âm dương và kiểm soát âm kinh. “Nhâm” có nghĩa là hoài thai và nuôi dưỡng.
2. Đốc mạch: Đốc mạch nằm ở giữa phần lưng, kiểm soát các đường kinh dương trên toàn thân. Nó cũng có quan hệ mật thiết với tuỷ sống và đại não. Đốc mạch có chức năng đả thông, dự trữ cũng như điều hòa khí huyết trong cơ thể. Hai chức năng lớn của Đốc mạch là điều tiết và kiểm soát những hoạt động tư duy, hoạt động của cơ quan sinh dục có liên quan đến Thận. Mạch Đốc nhận tất cả kinh khí từ các đường kinh dương của cơ thể (bể của các kinh dương). Mạch Đốc cùng với tất cả những kinh dương (Thái dương, Dương minh, Thiếu dương) hòa hợp với nhau và tạo thành Dương của cơ thể. Mạch Đốc có tác dụng điều chỉnh và phấn chấn Dương khí toàn thân. Duy trì nguyên khí của cơ thể.
3. Xung mạch: Trên lên tới đầu, dưới nối đến chân, xuyên qua toàn cơ thể, trở thành nơi xung yếu của khí huyết, có thể điều hòa khí huyết của 12 kinh chính, cổ nhân gọi là ‘Thập nhị kinh mạch chi hải’, có liên quan tới kinh nguyệt của nữ giới.
4. Đới mạch: Mạch Đới xuất phát từ huyệt Đới mạch (kinh Đởm), chạy chếch xuống vùng thắt lưng và chạy nối vùng quanh bụng. Mạch đi vòng quanh thân, ngang đoạn ở bụng (giống như dây đai – đới). Có thể ước thúc các mạch ngang dọc.
5,6. Âm kiều mạch, Dương kiều mạch: Là biệt mạch của kinh túc Thiếu Âm, có nhiệm vụ đem tông khí của Thận (ở dưới) lên trên (nhập vào dưới mắt). Có chức năng dưỡng mắt, điều chỉnh mí mắt khép mở và chi dưới vận động.
7,8. Âm duy mạch, Dương duy mạch: Duy có nghĩa là duy trì, gắn bó. Âm duy mạch có chức năng “nối liền các mạch âm”. Mạch Dương duy có chức năng nối liền tất cả các kinh dương của cơ thể, điều hòa quan hệ giữa các kinh dương, để duy trì sức chống đỡ của cơ thể đối với nguyên nhân gây bệnh từ bên ngoài.
1. Tăng cường liên hệ giữa 12 đường kinh mạch, ví dụ Đốc mạch nhận tất cả kinh khí từ các đường kinh dương của cơ thể (bể của các kinh dương). Nhâm mạch liên hệ tới tất cả đường kinh âm của toàn thân. Đới mạch ước thúc các đường mạch ngang dọc. Nhị kiều mạch chi phối âm dương bên trái phải của thân thể, nhị duy mạch là âm dương biểu lý. Kỳ kinh bát mạch có thể tăng cường liên hệ giữa các tạng phủ trong cơ thể.
2. Điều tiết khí huyết 12 kinh mạch. Khi khí huyết của 12 kinh mạch dư thừa, sẽ tàng trữ trong kỳ kinh bát mạch. Khi khí huyết bất túc, thì sẽ do kỳ kinh kịp thời “tràn ra” để bổ sung.
3. Kỳ kinh bát mạch có liên quan chặt chẽ với các tạng như Tâm, Can, Thận… và các phủ kỳ hằng như não, tủy, huyết mạch và tử cung ở phụ nữ. Giữa hai bên đều có liên hệ nhất định về sinh lý và bệnh lý.
* Đường đi
Mạch Đốc bắt nguồn từ Thận, chạy đến huyệt Hội âm, chạy tiếp đến huyệt Trường cường. Từ đây đường kinh chạy tiếp lên trên dọc theo cột sống đến cổ tại huyệt Phong phủ (từ đây đường kinh có nhánh đi sâu vào não), chạy tiếp lên đỉnh đầu đến huyệt Bách hội, vòng ra trước trán, xuống mũi, môi trên (huyệt Nhân trung) và tận hết ở huyệt Ngân giao ở nướu răng hàm trên.
– Từ huyệt Phong phủ (ở gáy), có nhánh đi ngược xuống 2 bả vai để nối với Kinh Túc Thái dương Bàng quang, chạy tiếp xuống mông và tận cùng ở bộ phận sinh dục – tiết niệu. Từ đây (từ huyệt Trung cực) xuất phát 2 nhánh:
- Nhánh đi lên trên: Theo kinh can Tỳ đến rốn. Tiếp tục đi lên theo mặt sau thành bụng, qua Tâm, xuất hiện trở ra ngoài da ở ngực để nối với kinh lạc của Bàng quang ở ngực, chạy tiếp đến cổ, mặt, đi sâu vào đồng tử và chấm dứt ở huyệt Tình minh.
- Nhánh đi xuống: Theo bộ phận sinh dục – tiết niệu đến trực tràng, đến mông (nối với kinh can Bàng quang tại đây) rồi chạy ngược lên đầu đến tận cùng ở huyệt Tình minh (từ đây đi sâu vào não). Lại theo kinh chính Thận đi xuống đến thắt lưng ở huyệt Thận du rồi cho nhánh đi vào Thận.
Đốc mạch nằm ở giữa phần lưng, kiểm soát các đường kinh dương trên toàn thân. Nó cũng có quan hệ mật thiết với tuỷ sống và đại não. Đốc mạch có chức năng đả thông, dự trữ cũng như điều hòa khí huyết trong cơ thể.
Hai chức năng lớn của Đốc mạch là điều tiết và kiểm soát những hoạt động tư duy, hoạt động của cơ quan sinh dục có liên quan đến thận. Các huyệt vị của Đốc mạch đều giúp tráng dương, tăng cường sức đề kháng và làm thân thể tráng kiện.
Việc điều dưỡng, bồi bổ và làm ấm Đốc mạch cùng các huyệt vị tráng dương khác sẽ giúp tránh được các chứng cảm mạo, đau nhức đầu cổ gáy, eo lưng nhức mỏi, hay quên, ngủ kém, tinh thần suy nhược, thậm chí là tai biến mạch não, liệt dương, di tinh, lãnh dục và các bệnh do tạng Thận suy yếu.
2. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Nhâm mạch
* Đường đi
Khởi đầu từ huyệt Hội âm (nơi giao nhau của mạch Nhâm và mạch Đốc), mạch Nhâm đi ngược lên qua giữa vùng mu, giữa bụng, giữa ngực, giữa cổ rồi kết thúc ở huyệt Thừa tương.
Từ huyệt Thừa tương có những mạch chạy vòng quanh môi, vào lợi (nướu) rồi liên lạc với mạch Đốc tại huyệt Ngân giao. Cũng từ huyệt Thừa tương xuất phát 2 nhánh đi lên 2 bên đến huyệt Thừa khấp rồi đi sâu vào trong mắt
Mạch Nhâm khởi lên từ Thận, đến vùng Hội âm tại huyệt Hội âm, chạy vòng ngược lên xương vệ (xương mu), qua huyệt Quan nguyên, theo đường giữa bụng ngực lên mặt đến hàm dưới tại huyệt Thừa tương.
* Chức năng sinh lý
Nhâm mạch chạy dọc giữa vùng bụng, cai quản các âm kinh trong cơ thể. Khí mạch của nó giao hội với các âm kinh ở tay chân để điều hòa âm dương và kiểm soát âm kinh. “Nhâm” có nghĩa là hoài thai và nuôi dưỡng. Vì vậy, Nhâm mạch có mối quan hệ mật thiết với quá trình mang thai, dưỡng thai và kinh nguyệt. Nhâm mạch đóng vai trò quan trọng với sức khỏe. Nếu mạch này bị hư hàn thì vùng bụng dễ bị lạnh, kết u và hình thành bướu mỡ.
3. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Xung mạch
* Đường đi
Xung mạch còn gọi là huyết hải, kiểm soát khí và huyết toàn cơ thể đưa đến 12 kinh chính, bắt đầu từ bộ phận sinh dục chia làm ba nhánh, một chạy lên đầu, một chạy theo xương sống, một nhánh xuống tới bàn chân.
*Chức năng sinh lý
– Điều tiết khí huyết của 12 kinh: Đường đi của Xung mạch trên hướng lên đầu, dưới tới bàn chân, xuyên khắp cơ thể, là nơi xung yếu tổng lĩnh khí huyết của các kinh lạc. Khi khí huyết trong tạng phủ và kinh lạc dư thừa, Xung mạch có thể kiềm chế và dự trữ; khi khí huyết trong kinh lạc tạng phủ không đủ, có thể bơm và bổ sung, để duy trì chức năng hoạt động sinh lý bình thường cho các cơ quan.
– Chủ về chức năng sinh sản: Xung mạch bắt nguồn từ dạ con, còn được gọi là ‘huyết hải, huyết thất” có tác dụng điều tiết kinh nguyệt. Xung mạch có quan hệ mật thiết với chức năng sinh sản. Mạch Xung là bể của 12 kinh mạch, quản lý khí huyết của các cơ quan nội tạng (Nội kinh viết: “Xung vi huyết hải”). Mạch Xung cùng với mạch Nhâm điều hành quá trình duy trì, phát triển thai, sản của phụ nữ. Những biểu hiện bệnh lý của mạch Xung gồm kinh nguyệt không đều, khí hư, đái dầm, không sinh đẻ được, thoát vị, khí từ bụng dưới thông lên ngực làm đau vùng tim, tiểu tiện bí. Có liên quan nhiều đến các bệnh vùng bụng, ngực đau cấp, suyễn. Nam giới bẩm sinh Xung mạch không hoàn chỉnh hoặc sau này bị thương tổn, đều có thể dẫn tới suy giảm chức năng sinh sản.
– Điều tiết khí cơ lên xuống: Xung mạch chủ yếu có chức năng điều chỉnh khí cơ lên xuống chủ yếu của tạng Can, Thận, Vị.
4. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Đới mạch
* Đường đi
Ở dưới bờ sườn cụt 1,8 tấc (Giáp ất, Đồng nhân, Phát huy, Đại thành). Đới mạch xuất phát từ huyệt Đới mạch (kinh Đởm), chạy chếch xuống vùng thắt lưng và chạy nối vùng quanh bụng. Mạch đi vòng quanh thân, ngang đoạn ở bụng (giống như dây đai – đới).
* Chức năng sinh lý
Ràng buộc các đường kinh lạc ngang dọc. Thông thường khi mạch Đới bị rối loạn sẽ xuất hiện chứng trạng: Bụng đầy chướng, kinh nguyệt không đều. Cảm giác như “ngồi trong nước” (tê từ thắt lưng xuống hai chi dưới); yếu, liệt 2 chi dưới.
5. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Âm kiều mạch
* Đường đi
Bắt đầu từ vùng sau xương thuyền phía trước mắt cá chân trong, qua huyệt Chiếu hải lên phần cao nhất mắt cá chân trong, chạy dài theo mặt trong đùi và háng, nhập vào bộ sinh dục ngoài, vào bụng, chạy dài theo mặt trong ngực vào bên trong hố xương đòn. Khuyết Bồn, đến sụn giáp lên mặt, vào xương gò má, đến khóe trong mắt và giao với Kinh Thủ Thái dương Tiểu Trường, Túc Dương minh Vị và mạch Dương Kiều.
* Chức năng sinh lý
Kiểm soát sự khép mở của mắt và sự vận động của cơ bắp.
6. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Dương kiều mạch
* Đường đi
Là mạch nhận khí của Thận. Đem khí của Thận từ dưới lên trên. Bắt đầu ở mặt ngoài gót chân, chạy dài theo mặt ngoài chân, hợp với kinh chính Đởm ở huyệt Dương Phụ, lên mặt ngoài mông ở huyệt Cự Liêu, chạy dài theo sườn tới vai, hợp với Túc và Thủ Thái dương (Bàng Quang + Tiểu Trường) và mạch Dương duy ở huyệt Nhu du, qua kinh chính Đại Trường ở huyệt Kiên ngung và Cự cốt, lên mặt, hợp với Túc và Thủ Dương Minh (Vị + Đại Trường) ở huyệt Địa thương và Cự liêu. Qua kinh Vị và mạch Nhâm ở huyệt Thừa khấp, đến góc trong mắt ở huyệt Tình minh hợp với mạch Âm kiều, lên trán và kết thúc ở sau xương chũm tai.
* Chức năng sinh lý
Kiểm soát sự khép mở của mắt và sự vận động của cơ bắp.
7. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Âm duy mạch
* Đường đi
Khởi lên từ chỗ giao nhau của các kinh Âm, mặt trong cẳng chân huyệt Trúc tân, chạy dài lên theo vùng đùi lên đến bụng, hội với kinh Túc Thái âm Tỳ ở huyệt Đại hoành, Phúc ai, Phủ xá và hội với kinh Can ở huyệt Kỳ môn, chạy lên ngực đến cổ, hội với mạch Nhâm ở huyệt Thiên đột và Liêm tuyền.
* Chức năng sinh lý
Mạch Âm duy có quan hệ với: Kinh chính của Thận: mạch Âm duy khởi phát từ huyệt Trúc tân của kinh Thận. Kinh chính Tỳ (qua các huyệt Phủ xá, Đại hoành, Phúc ai), Can kinh (qua huyệt Kỳ môn) và mạch Nhâm (qua huyệt Liêm tuyền, Thiên đột). Vì những mối quan hệ trên mà mạch Âm duy có chức năng nối liền tất cả các kinh âm của cơ thể, điều hòa quan hệ giữa các kinh âm để duy trì sự thăng bằng của cơ thể.
8. Vòng tuần hoàn và chức năng sinh lý của Dương duy mạch
* Đường đi
Mạch Dương duy bắt đầu từ huyệt Kim môn (kinh Bàng quang), chạy theo mặt ngoài cẳng chân đến huyệt Dương giao (kinh Đởm), chạy tiếp lên vùng mông đến huyệt Cự liêu (kinh Đởm), chạy theo mặt ngoài thân lên vai đến huyệt Nhu du (kinh Tiểu trường), chạy đến huyệt Kiên liêu (kinh Tam tiêu) rồi đến Kiên tỉnh (kinh Đởm, cũng là giao hội với kinh Túc Dương minh Vị), chạy tiếp đến Á môn, Phong phủ (mạch Đốc), sau đó vòng từ phía sau đầu ra trước để đến tận cùng ở Dương bạch sau khi đã đến các huyệt Chính doanh, Bản Thần, Lâm khấp (kinh Đởm).
* Chức năng sinh lý
Mạch Dương duy nối với toàn bộ các kinh dương của cơ thể (Thái dương, Dương minh và mạch Đốc).
Nói tóm lại, Kỳ kinh bát mạch cố nhiên đều có tác dụng tách rời ra được. Trong đó, hai mạch Nhâm, Đốc đi ở chính giữa (phía sau và phía trước thân thể), vận hành khí huyết, nối lại thành một đường vòng, đều có chuyên huyệt, chứ không như sáu mạch còn lại đều phải phụ thuộc vào hàng ngũ huyệt của 12 kinh mạch chính. Cho nên người xưa đem 2 mạch Nhâm, Đốc xếp vào với 12 kinh chính, gọi chung là 14 kinh chính.
Theo ĐKN